Đồng bộ chính sách để giữ chân nhà giáo

Luật Nhà giáo chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2026 với những thay đổi đáng chú ý về chế độ lương, phụ cấp và điều kiện làm việc của giáo viên.

Giờ luyện đọc của học sinh lớp 2/1 Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học & THCS Trà Nam. Ảnh: NTCC

Giờ luyện đọc của học sinh lớp 2/1 Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học & THCS Trà Nam. Ảnh: NTCC

Tuy nhiên, nhiều thầy cô kỳ vọng không chỉ lương, phụ cấp tăng mà còn có các chính sách đồng bộ về cơ sở vật chất, môi trường dạy học và cơ hội phát triển chuyên môn, để việc gắn bó với nghề thực sự bền vững.

Nỗi lo gánh nặng đường xa

Trong hơn 5 năm dạy học ở Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học & THCS Trà Nam (xã Trà Linh, TP Đà Nẵng), chiều thứ 6, cô Trà Thị Hậu mới được về nhà ở Thăng Bình thăm con, nếu cuối tuần trường không tổ chức hoạt động ngoại khóa hoặc hội họp, sinh hoạt chuyên môn.

Với quãng đường gần 150km, cô Hậu mất một buổi để di chuyển bằng xe máy, về đến nhà đã tối mịt. Trưa Chủ nhật, cô lại quay lên trường để chuẩn bị cho tuần học mới. Thế nên thời gian bên gia đình rất ít. Việc đi lại cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, nhất là mùa mưa, đường sạt lở, có khi phải đi bộ hàng cây số mới tới trường.

Một cảnh hai quê, nồi cơm cũng xẻ làm hai nên gần như vợ chồng cô Hậu không tiết kiệm được khoản nào, cho dù ngoài lương ra còn có thêm 70% phụ cấp thu hút giáo viên dạy học vùng khó. Đầu năm 2023, cô Hậu chuyển về dạy học ở gần nhà sau khi tham gia thi lần thứ 2, kỳ thi viên chức ngành Giáo dục của Sở GD&ĐT Quảng Nam (cũ) tổ chức.

Ông Võ Đăng Chín – Hiệu trưởng Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học & THCS Trà Nam chia sẻ: “Một giáo viên mới ra trường dạy học ở vùng cao, mức lương theo cách tính mới khoảng 15 triệu đồng/tháng, nhưng chi phí đi lại, sinh hoạt cao nên chưa thật sự hấp dẫn để họ gắn bó lâu dài.

Tuy nhiên, đối với giáo viên miền núi, thu nhập không phải là yếu tố quyết định để giữ chân họ. Cái cần hơn là điều kiện dạy học và đời sống sinh hoạt ở từng ngôi trường. Giao thông đi lại khó khăn, nhiều rủi ro, nhất là mùa mưa; nước sinh hoạt, thực phẩm cũng thiếu thốn. Những yếu tố đó khiến giáo viên dù có tâm huyết cũng dễ nản lòng”.

Ông Võ Đăng Chín cho rằng, để giải quyết tận gốc tình trạng này, cùng với cải thiện chính sách tiền lương, phụ cấp thu hút đối với giáo viên vùng khó, cần đi kèm với nâng cấp cơ sở vật chất, rút ngắn khoảng cách vùng miền, tạo điều kiện dạy học thuận lợi hơn.

Một trong những vấn đề lớn nhất của giáo dục vùng khó hiện nay không chỉ nằm ở thu nhập mà còn ở việc tổ chức, bố trí nhân sự và điều kiện công tác. Theo ông Chín, có thầy cô phải di chuyển hàng chục cây số, thậm chí mất nửa ngày đường từ xã miền núi này đến một xã miền núi khác để dạy học.

Nếu được bố trí dạy học ngay tại địa phương, thầy cô sẽ giảm bớt vất vả trong đi lại. Đây mới là yếu tố giúp họ gắn bó và yên tâm với nghề. Như trường hợp một giáo viên dạy học ở Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Trà Leng 1 (xã Trà Leng, TP Đà Nẵng), gia đình ở vùng miền núi Tây Giang nhưng sang Trà Leng dạy học. Một năm sau, khi chỉ tiêu biên chế của Tây Giang dồi dào, giáo viên này nộp đơn thi viên chức để chuyển về gần nhà.

Theo ông Chín, để giải quyết tận gốc tình trạng thiếu giáo viên, không chỉ tăng phụ cấp mà cần có giải pháp điều động, luân chuyển hợp lý, sao cho giáo viên có điều kiện trở về công tác gần nhà. Khi đời sống và môi trường làm việc được cải thiện, thầy cô không chỉ yên tâm gắn bó mà còn có động lực phát huy năng lực.

“Một rào cản nữa trong thu hút và giữ chân giáo viên vùng cao là hạn chế trong tiếp cận công nghệ. Mà bây giờ, dạy học không gắn với công nghệ thì khó đổi mới được phương pháp. Cùng đó, con em địa phương đi học sư phạm rồi quay lại giảng dạy cũng chưa đáp ứng được yêu cầu.

Một phần do rào cản tâm lý, phần vì khả năng diễn đạt, truyền đạt kiến thức còn hạn chế. Nhiều phụ huynh và học sinh vẫn có tâm lý e dè, chưa thật sự tin tưởng giáo viên người địa phương. Đây cũng là thách thức lớn trong việc phát triển đội ngũ lâu dài”, ông Chín phân tích.

dong-bo-chinh-sach-de-giu-chan-nha-giao-1-3607.jpg
Một tiết dạy học về chủ đề xây dựng văn hóa nhà trường của Trường THCS Nguyễn Huệ (Đà Nẵng). Ảnh: NTCC

Áp lực không đến từ trang giáo án

Có hiệu lực từ 1/1/2026, cô Lê Thị Xuân Đào – giáo viên Ngữ văn, Trường THCS Tây Sơn (phường Hải Châu, TP Đà Nẵng) kỳ vọng những thay đổi trong Luật Nhà giáo 2025 là động lực thu hút các thầy cô có chuyên môn, yêu nghề, sẵn sàng gắn bó lâu dài với nghề giáo.

Tuy nhiên, bên cạnh những cải thiện về thu nhập, thực tế tâm lý giáo viên lại có phần “bất ổn”. Theo cô Xuân Đào, Luật Nhà giáo quy định rõ quyền và nghĩa vụ giáo viên nhưng đồng thời môi trường giáo dục đang chịu sự giám sát chặt chẽ từ gia đình, xã hội. Trong thời buổi mạng xã hội có sức ảnh hưởng chóng mặt thì một hành động sơ suất, lời nói, cử chỉ vô tình… nếu bị cắt ra khỏi ngữ cảnh dễ bị suy diễn và giáo viên rất khó để bảo vệ mình.

Ông Lê Trung Chinh – nguyên Chủ tịch UBND TP Đà Nẵng cũng cảnh báo tình trạng những thay đổi từ đời sống xã hội ít nhiều ảnh hưởng đến văn hóa học đường. Giáo viên dè dặt hơn trong uốn nắn học sinh có hành vi lệch chuẩn; cẩn trọng hơn khi tiếp xúc, trao đổi với phụ huynh để giữ cho mình sự an toàn.

“Đôi lúc, đôi nơi, quan hệ giữa giáo viên – học sinh – phụ huynh như một công chức với công dân, đang thực hiện dịch vụ công. Nếu không có quy định rõ ràng, chuyên biệt áp dụng trong môi trường giáo dục thì trong tương lai gần khó tìm được người thầy tâm huyết, “chạm” đến trái tim của học sinh”, ông Chinh chia sẻ.

Chế độ lương và phụ cấp mới theo Luật Nhà giáo rõ ràng đã tạo được nền tảng để giữ chân giáo viên, đặc biệt người có năng lực và yêu nghề. Nhưng như mong mỏi của cô Lê Thị Xuân Đào, để thực sự bền vững, giáo viên cần có môi trường làm việc ổn định, được hỗ trợ về mặt chuyên môn và tâm lí; được chủ động trong hoạt động giáo dục, được tôn trọng vai trò người dẫn dắt, được hỗ trợ khi phát sinh xung đột với phụ huynh hay học sinh. Nếu chỉ tăng thu nhập mà chưa giải quyết được những bất ổn tâm lí, áp lực quản lí – giáo dục thì nguy cơ chán nghề vẫn còn.

dong-bo-chinh-sach-de-giu-chan-nha-giao-2.jpg
Tiết dạy ứng dụng công nghệ thông tin của Trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học & THCS Trà Nam (Đà Nẵng). Ảnh: NTCC

Để chính sách đi vào cuộc sống

Thầy Nguyễn Văn Tuấn – Tổ trưởng Tổ Lịch sử – Địa lí, Trường THCS Nguyễn Huệ (phường Hải Châu, TP Đà Nẵng) cho rằng, với Luật Nhà giáo, lần đầu tiên nghề dạy học được điều chỉnh bằng luật riêng, thể hiện sự quan tâm đặc biệt của Nhà nước đối với vị thế, vai trò và điều kiện làm việc của giáo viên trong bối cảnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục. So với các quy định hiện hành, Luật Nhà giáo và các văn bản hướng dẫn thi hành đã đề xuất một số thay đổi quan trọng, đặc biệt trong các nhóm chính sách về tiền lương, phụ cấp và điều kiện làm việc.

Tuy nhiên, thầy Tuấn cho rằng còn không ít thách thức có thể xảy ra trong quá trình thực hiện. Đó là sự chênh lệch vùng miền khó có thể rút ngắn nếu nguồn ngân sách phân bổ không đồng đều giữa các địa phương.

“Ngoài vấn đề thu nhập, các yếu tố đãi ngộ như điều kiện cơ sở vật chất, môi trường làm việc, cơ hội phát triển nghề nghiệp và chăm sóc sức khỏe tinh thần cũng cần được chú trọng. Nếu chỉ cải thiện về lương mà chưa giảm tải khối lượng công việc hay cải thiện áp lực hành chính, hiệu quả giữ chân đội ngũ nhà giáo sẽ chưa bền vững”, thầy Tuấn phân tích.

Cùng với chế độ đãi ngộ, thời gian làm việc, bồi dưỡng nghiệp vụ cũng cần đi kèm với sự sàng lọc đội ngũ. Thu nhập thấp thì có tình trạng giáo viên bỏ nghề, nhưng ưu đãi phải đi kèm với đánh giá đúng mực, phân loại rõ ràng, minh bạch để bảo đảm chất lượng đội ngũ.

Hà Nguyên

Theo Báo Giáo dục & Thời đại

Tin mới hơn